1. Từ giã Hốc Môn:
Âm u bóng tối vây quanh
Tạ từ xao xác... Thôi đành chia tay
Trót mang số phận lưu đầy
Thân không án tích lòng xây oán thù.
2. Tại Tân Cảng Sàigòn:
Nối đuôi đi xuống cầu tầu
Dăm ba họng súng phiá sau gầm gừ
Sài gòn! Thôi nhé giã từ.
Trời cao biển rộng, thân tù bơ vơ.
3. Dưới hầm Tàu HQ-503:
Ngổn ngang một lũ "hàng" người (1)
Nằm, ngồi... xếp lớp cá mòi chen chân
Lều bều những nước cùng phân
Kiếp tù với thú cũng gần giống nhau.
4. Đến An Thới, đảo Phú Quốc:
Chung quanh biển rộng mênh mông
Làm thân cá chậu chim lồng từ đây
Trời cao hun hút chân mây
Vác cây thánh giá lưu đầy hoang mang
Mỗi ngày qua lại ngỡ ngàng
Một bầy tiền sử võ vàng xác thân.
Vũ Uyên Giang
Viết cuối năm 1976 trên chuyến lưu đầy Phú Quốc
(1) Việt cộng gọi tù nhân QLVNCH là hàng
BÀI HỌA CỦA HÀ THƯỢNG NHÂN
CHUYẾN ĐI ĐẢO LƯU ĐẦY
1. Từ Giã Hốc Môn:
Gặp nhau cứ mãi loanh quanh
Nhìn không kịp nói cũng đành nắm tay
Nghĩ thôi ly nước đã đầy
Dẫu không muốn rót cũng xây nỗi thù
2. Tại Tân Cảng Saigon:
Chen chân xuống vội cầu tầu
Đã nghe cán bộ trước sau gầm gừ
Lấy ai mà nói giã từ
Chân trời góc bể đi tù bá vơ.
3. Dưới hầm tầu HQ.503
Chúng ta còn có là người
Hay là mấy lớp cá mòi quấn chân
Những là bê bết tro phân
Người hay cầm thú cũng gần như nhau
4. Đến An Thới.
Trời cao biển cả mênh mông
Ai đem mình nhốt vào lồng từ đây
Ngẩng nhìn man mác trời mây
Chưa nghe roi vọt đã đầy hoang mang
Bạn mình ai đó ngỡ ngàng
Tưởng đâu tiền sử da vàng tủi thân.
HÀ THƯỢNG NHÂN
GỬI PHẠM THIÊN THƯ
Bởi chưng xưa "gã từ quan"
Ngày nay ngồi ngắm hoa vàng mung lung
Xót trang bi sử ngượng ngùng
Thất phu thẹn với tang bồng nổi trôi
Mấy năm vật đổi sao dời
Hoài thân lận đận vẫn đời hoang mang
Trước sân dăm cánh hoa vàng
Ngậm ngùi thế sự ngàn hàng lệ sa.
Vũ Uyên Giang
(Viết 1981 khi ngồi uống cafe ở quán cafe của Pham Thiên Thư gần góc đường Yên Đổ - Hai Bà Trưng)
BÀI HỌA CỦA HÀ THƯỢNG NHÂN:
PHẠM THIÊN THƯ
Ngày xưa đã chẳng làm quan
Bây giờ nhìn cánh mai vàng lao lung
Hở môi thì cũng ngại ngùng
Cầm như những ngọn cỏ bồng đang trôi
Lạ chưa vật đổi sao dời
Tiếng thơ uất nghẹn, tiếng đời mang mang
Mùa hè sao lá úa vàng
Lời buồn bỗng thấy mấy hàng mưa sa.
HÀ THƯỢNG NHÂN
May 4th, 2007
TIỄN BẠN LƯU ĐẦY ĐẤT BẮC
(Gửi bạn tôi ký giả Trần Ninh Bình (tên thật là Trần Ngọc Tự) khi bạn bị đi đầy đất Bắc 1977)
Mày đi nặng gánh lao tù
Gió mưa Việt Bắc mịt mù từ đây
Còn tao heo hút chân mây
Khổ sai lao dịch dưới tay vượn người
Mày đi môi vẫn mỉm cười
Cỏ cây rũ rượi khóc lời chia xa.
Vũ Uyên Giang
(Viết 1977 ở Long Giao khi tiễn Trần Ngọc Tự đi Bắc)
HÀ THƯỢNG NHÂN họa bài thơ:
TIỄN BẠN LƯU ĐÀY ĐẤT BẮC
của Vũ Uyên Giang
Mày tù tao cũng là tù
Là mưa hay lại sương mù nơi đây
Nhớ ơi ! mái tóc như mây
Ra ta vẫn nắm bàn tay: vẫn người
Mày đi tao bỗng cả cười
Nhớ chưa kịp khóc một lời đã xa
Hà Thượng Nhân
12-09-06
XUÂN Ở LONG GIAO
(Tặng bạn tôi nhà văn quân đội Dương Hùng Cường)
Heo hút đồi cao bụi phủ mờ
Những thân còm cõi dáng chơ vơ
Bốn vòng gai sắc như dao nhọn
Đâm suốt hồn ai nhát hững hờ?
Đã mấy mùa xuân trong đớn đau
Cao su vàng lá úa u sầu
Bọn ta chung kiếp tù tăm tối
Ngày tháng chừng trôi qua rất lâu
Từ đáy ngục sâu gặp cố tri
Cầm tay chẳng biết nói năng chi
Rưng rưng khoé mắt đôi giòng lệ
Tủi hận vương đầy trên lối đi
Cùng đón xuân sang giữa ngục tù
Chẳng trà, chẳng bánh, chẳng hạt dưa
Uống ly nước lạnh thay men rượu
Rồi cũng rền vang mẩu chuyện xưa.
Vũ Uyên Giang
(Long Giao 1978. Xuân Mậu Ngọ ngồi với Dương Hùng Cường trong tù)
HÀ THƯỢNG NHÂN
họa bài thơ:
XUÂN Ở LONG GIAO
của Vũ Uyên Giang
Chẳng khóc làm sao mắt cũng mờ
Có người tiền sử đứng bơ vơ
Kẽm gai vây giữa bờ sinh tử
Cửa sổ phòng em chắc khép hờ
Chắc hẳn em còn muôn nỗi đau
Mới Xuân sao lại ngẩn ngơ sầu
Long giao gần gũi Sài gòn thế
Ta mất em từ đã thật lâu
Ta không gỗ đá vẫn vô tư
Mà viết gì đây? biết nói gì?
Trang giấy bỗng dưng dòng lệ ướt
Những con đê lạ bước anh đi
Thăm thẳm đường xa một lối tà
Mưa như lất phất những dàn dưa [1]
Bỗng nghe ma khóc đêm khuya lạnh
Câu chuyện liêu trai cũng chẳng xưa.
HÀ THƯỢNG NHÂN
[1] Lấy ý mấy câu đề từ Liêu Trai Chí Dị của Vương ngũ Dương
Cô thị ngôn chi cô thính chi
Dậu bằng qua giá vũ như ty.
Bùi Giáng
Nhớ khi gặp Bùi Giáng ở Phú Nhuận năm 1981
Người tỉnh hay điên giữa hỗn mang?
Thênh thang trời đất cõi vô thường
Chung quanh cũng chỉ /à hư ảo
Tiền kiếp nào xưa như giọt sương?
Ta tỉnh, người điên lúc đời đời
Ta tìm những nẻo rất chông gai
Trong, ngoài - Hai chỗ nhà tù cả
Người chửi huênh hoang thật thảnh thơi
Xã hội đảo điên người vẫn giàu (l )
Trên mình dăm bảy bộ thanh cao
Còn ta rách nát như xơ mướp
Nhờ đảng cho nên ta giống nhau
Vũ Uyên Giang
(Sài gòn - 1981 )
(1) Bùi Giáng lúc nào cũng quấn quít trên mình 3, 4 bộ quần áo và trong các túi chứa đầy giấy lộn
HÀ THƯỢNG NHÂN
họa bài thơ BÙI GIÁNG
của VŨ UYÊN GIANG
Trời mang mang đất mang mang
Đã trót sinh ông cũng bất thường
Châu chấu chuồn chuồn bay lả tả
Cuộc đời mờ ảo những làn sương
Ăn uống vui chơi với cuộc đời
Hoa hồng như máu, nhọn như gai
Áo trăm miếng vá, người rong ruổi
Trong cõi nhân sinh tự thảnh thơi
Giáng với ông coi bộ chẳng giàu
Chẳng điên, chẳng thấp, chẳng hề cao
Bỗng dưng hai kẻ thành vô sản
Giữa ngã ba đường gặp gỡ nhau
HÀ THƯỢNG NHÂN
13-9-06
Bởi xưa ta đã quá nhát gan
Tháng Tư buông súng vội tan hàng
Lếch thếch một bầy trong tù ngục
Cuộc chiến sau cùng bỏ dở dang
Vang súng đạn thù trên trận tuyến
Sa trường binh lửa nặng oằn vai
Thất phu sinh giữa thời chinh chiến
Trách nhiệm không tròn tủi kiếp trai
Tóc bạc ôm hờn nơi viễn xứ
Bại binh vong quốc khóc thương thân
Tự trách mình làm cho mất nước
Lưu đầy xứ lạ đến bao năm???
Vũ Uyên Giang
Chicago, 1983
BÀI HỌA CỦA HÀ THƯỢNG NHÂN
TỰ TRÁCH
Cho dẫu là người lớn mật gan
Khi ông Tổng thống gọi tan hàng
Làm sao tránh khỏi nơi tù ngục
Để cuộc đời này luống dở dang
Áo trận, giày sô trên tuyến lửa
Dù cho nhiệm vụ nặng đôi vai
Trót sinh ra giữa thời chinh chiến
Có lẽ nào đâu nhụt chí trai
Hôm nay nâng chén ngoài biên cảnh
Ngâm ngùi thương mãi kiếp vong thân
Sao lại làm tên thân mất nước
Sống thừa sót lại phỏng bao năm?
Hà Thượng Nhân
29/3/2007
KHI Ở TÂY NINH
Rời chiến trận ta về qua Bến Sỏi
Bụi đỏ au trên vai áo chinh nhân
Ngang Thanh Điền ta bỗng ngập ngừng chân
Vì cô bé Bắc kỳ xinh quá sức
Tà áo trắng bay bay, thơ rất mực
Khiến cho hồn chiến sĩ bỗng bâng khuâng
Lính bộ binh về hậu cứ dưỡng quân
Vẫn lội bộ mỏi chân quanh phố chợ
Từ Kim Ánh, Phú Lai say tở mở
Lại quay về nhậu đế ở Long Hoa
Đêm quán Mường, ôi nước mắt chan hoà
Nghe tin bạn bỏ thây ngoài trận tuyến
Đời trai trẻ sống giữa muà chinh chiến
Mấy người đi mà có mạng quay về (1)
Ta gục đầu thương bạn chết xa quê
Giữa lúc tuổi thanh xuân vui hớn hở
Xác tan tác vì mìn trên giao lộ
Tận Svay Rieng xa lơ lắc ngút ngàn
Giữ ấm êm cho dân chúng Sàigòn
Trước làn sóng xâm lăng từ phương Bắc
Và cũng chẳng cần được ai mạc mặt (2)
Chẳng vinh danh và cũng chẳng biết tên
Ôi Tây Ninh ta vẫn nhớ triền miên
Từ một thuở xa xưa làm lính chiến...
Vũ Uyên Giang
(1) Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?
(2) "nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn" trong Chinh Phụ Ngâm
BÀI HỌA CỦA HÀ THƯỢNG NHÂN:
Làm chiến sĩ có khác chi hòn sỏi
Với bạn bè quên cả áo thi nhân
Giữa bộn bề thôi thì thử dừng chân
Đây quán phở An Hòa ta liệu sức
Giờ buông súng thì quay về bút mực
Ly rượu vang cùng bạn rót bâng khuâng
Sao mà quên những buổi rượu hành quân
Phanh vạt áo cười ran ngay giữa chợ
Cửa ai đóng mà lòng ai vẫn mở
Trên tháng ngày vẫn thắm một vòng hoa
Gặp lại nhau trông mặt thật hiền hòa
Thật là khác những ngày trên trận tuyến
Bọn chúng ta tuy vẫn là lính chiến
Vẫn đắm say trên những nẻo đi về
Vẫn lòng đau một nỗi nước non quê
Lúc xung trận lòng vô cùng hớn hở
Nơi xứ lạ trùng trùng là xa lộ
Như nước trôi xe chạy cứ ngàn ngàn
Bỗng tự nhiên lại thương nhớ Sàigon
Mắt đẫm lệ ngoảnh nhìn về đất Bắc
Trước lịch sử ta chưa hề cúi mặt
Tướng và quân còn để lại bao tên
Đêm hôm nay trằn trọc giấc cô miên
Ta lại nhớ ngày nào còn chinh chiến.
HÀ THƯỢNG NHÂN
MỘT CHUYẾN HÀNH QUÂN LONG AN - HẬU NGHĨA
Một buổi sáng hành quân ngang Bến Lức
Nghe mùi thơm sực nức của lúa non
Đồng ruộng xanh bát ngát trổ đòng đòng
Chân chiến sĩ ngập ngừng bên ruộng lúa
Hây hây đỏ má hồng cô thôn nữ
Đời chiến binh tình tứ mộng đơm hoa
Quên mệt nhọc, quên chiến trận mù xa
Vui nhịp bước trên nẻo đường chiến đấu
Diệt giặc cỏ ở vườn thơm sáu mẫu (1)
Phá trùng vây kinh Trà Cú, Bo Bo
Đám lá tối trời, ngủ bụi ngủ bờ (2)
Sông Vàm Cỏ ngụy trang ta phá địch
Ôi Long An những đêm dài tịch mịch
Trong bóng đen ẩn náu những hình ma
Muỗi mòng thêm đỉa vắt quấy rầy ta
Vượt sông rạch về Đức Hòa, Đức Huệ
Tạm dừng quân nhậu vài chai lẻ tẻ
Xóm Bàu Trai ai bắc nhịp Cầu Duyên (3)
Đi trên cầu lại nhớ Mã Sanh Nhơn (4)
Tìm hình bóng em Tha La Xóm Đạo
Rời Lộc Giang, Trảng Bàng ta khờ khạo
Lỡ sa vào cô giáo trẻ sớm mai
Chỉ vài hôm là tơi tả hình hài
Chân vui bước nhưng lòng còn để lại
Ôi đời lính ta vẫn còn đi mãi
Nay Long An, mai Hậu Nghĩa, Tây Ninh…
Mỗi nơi qua để lại những ân tình
Chân bối rối luyến lưu không nỡ bước.
Vũ Uyên Giang
(1) Vườn thơm Lý Văn Mạnh ở Long An
(2) “Đám lá tối trời” địa danh nằm bên Kinh Bo Bo từ phía vườn thơm Lý Văn Mạnh đi Đức Huệ
(3) Bàu Trai còn gọi là Khiêm Cương là thị xã của tỉnh Hậu Nghĩa nơi có chiếc Cầu Duyên
(4) Đại tá Mã Sanh Nhơn, Tỉnh trưởng Hậu Nghĩa người đặt tên chiếc Cầu Duyên
TRỞ LẠI BÌNH DƯƠNG
Ngày trở lại Bình Dương mù khói súng
Giữa mùa Hè đỏ lửa bảy mươi hai.
Nay Lai Khê, mai Bến Thế dài dài
Đoàn quân mỏi gót chân săn bắt địch
Từ Bà Chủ về Tàu Ô mắc dịch
Bọn cộng nô như chuột lắt trong hang
Chúng chơi trò "chốt chặn" tại Bàu Bàng
Ngăn bước tiến quân ta về An Lộc
Ta réo bạn từ căn hầm ẩm mốc
Pháo trên đầu cấp tập giải vây nhau.
Với biển người chúng định diệt ta đau
Nhưng cũng chỉ làm mồi cho pháo bạn
Một chọi mười ta chẳng cần phí đạn
Xác giặc phơi ngập kín cả chiến trường
Áo chiến binh khét bom đạn Bình Dương
Ngày trở lại cũng bình thường như trước
Cũng gian truân đời chiến binh ta bước
Cũng mồ hôi và máu bạn bè ta.
Vũ Uyên Giang
(Nhớ về Bình Dương)
Hành Trời Tây
(NHÁI THEO HÀNH PHƯƠNG NAM)
Đôi ta lưu lạc phương Nam này
Trải mấy mùa qua én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
Riêng ta với ngươi buồn vậy thay
(Hành Phương Nam - Nguyễn Bính)
Hành lá, hành hoa, cả ruộng hành
Hành Nam, hành Bắc vẫn màu xanh
Cớ chi đày đoạ nhau hoài thế?
Tan nát đời nhau mấy kiếp hành
Bọn ta lưu lạc tận Hoa kỳ
Đã mấy mùa xuân sống biệt ly
Đất lạnh ngươi ôm sầu viễn xứ
Trời Tây ta chí nhỏ - cu ly.
Đếm tháng ngày qua trong chén rượu
Ly nào cũng nốc vẫn không say
Men tình uống cạn từ hôm trước
Là hết, thôi đành gửi gió mây
Chí lớn ngươi sa vòng lừa đảo
Ta nhìn nhân thế trắng đôi tay
Niềm tin đốt sạch ngay ngày ấy
Hoài bão quay về như khói bay
Hỡi ơi một kiếp đời lưu lạc
Quê cũ vẫn chìm trong đắng cay
Nhắm mắt buông xuôi thân gió bụi
Mơ hồ nguồn cội cũng buồn lây.
Bao giờ một lũ cuồng ngu dại
Tỉnh giấc si mê hoang tưởng kia
Ngày ấy nhân gian bừng sống lại
Một trời vang vọng khúc hoan ca.
Ta với ngươi mừng vui chén rượu
Ly đầy cũng cạn hết niềm vui
Thế giới vỡ oà trong tiếng khóc
Không còn ly biệt lệ chia phôi.
Vũ Uyên Giang
San Leandro, 2006
HỌA BÀI HÀNH TRỜI TÂY
CỦA VŨ UYÊN GIANG
Gần Tết đọc Hành, viết bài hành
Nhìn ra lá cỏ vẫn màu xanh
Ngày xưa Nguyễn Bính ba ly rượu
Còn lại ngày sau mấy khúc hành
Đánh nhau chưa chết cũng là kỳ
Chẳng ốm không đau cũng cách ly
Trên đất tạm dung ngồi nhớ lại
Cũng may chưa phải làm cu ly
Cũng may tuổi già kiêng cữ rượu
Không rượu uống trà mà sao say
Chim nhạn, chim hồng về phương bắc
Ta chẳng là chim nên chửa bay
Chưa bay không rượu sao lảo đảo
Cuối năm chỉ biết thõng đôi tay
Niềm tin dẫu chẳng bao giờ cạn
Vẫn thấy mơ hồ như bóng mây
Chẳng biết mình khôn hay vẫn dại
Núi sông vẫn đó vẫn còn kia
Ta nhìn sông núi mà đau đớn
Tuổi trẻ chưa tàn một khúc ca
Ta tiếc không cùng vui chén rượu
Bên người bát ngát một cơn vui
Mới hay chữ nghĩa còn duyên nợ
Tấc lòng mê đắm có pha phôi?
Hà Thượng Nhân
Tháng 2/2007
HÀ THƯỢNG NHÂN GỬI VŨ UYÊN GIANG
Người học người xưa thói Mạnh Thường
Cảm người vì một chút văn chương
Rượu không uống được cùng thi hữu
Say dễ gì đâu lúc nhiễu nhương?
Lòng đã coi nhau như buổi mới
Làm sao xoá được chữ yêu thương
Nhưng ta tính vốn ưa sòng phẳng
Dầu biết cùng đi một ngả đường
Ta đọc thơ người ta cảm khái
Ngàn năm thôi cũng đã tơ vương
Ta mong có buổi nào đông đủ
Nâng chén cười rung cả bốn phương
Mà nói Uyên Giang là có bạn
Từ nay là có bạn văn chương.
Hôm nay kiếu bạn ta xin nghỉ
Mai mốt tìm nhau giữa hí trường
Người viết bài hành như buổi nọ
Ta về thơm ngát một mùi hương
Tiếc không còn tuổi hoa niên nữa
Để hẹn nhau về giữa cố hương
Gặp lại những ai như Nguyễn Bính
Để nghe Khương hát, nghe Khê hát (1)
Để thấy mình đang giữa thịnh đường.
HÀ THƯỢNG NHÂN
San Jose 18/1/2007
Ghi chú: (1) Tôn Nữ Hỷ Khương 1 nhà thơ xứ Huế và cũng là ca sĩ ca trù, và nhạc sĩ Trần Văn Khê